carousel bootstrap by WOWSlider.com v8.2

Tour lẻ

DU LỊCH NGÀY MỚI- KHƠI NGUỒN CẢM HỨNG TRÊN TỪNG CHUYẾN ĐI

Hỗ trợ trực tuyến

0913337787
Kinh doanh 1
Mr Quí
Phone : 0913337787
Kinh doanh 2
Ms Trang
Phone : 0932222893
Kinh doanh 3
Ms Tuyến
Phone : 0931201039
Kinh doanh 4
Ms Thắm
Phone : 0918796639

Thống kê

Tổng truy cập :485790
Đang Online :82

Du lịch Làng cổ Đường Lâm (Vùng Đất 02 Vua)

 

Du lịch Làng cổ Đường Lâm (Vùng Đất 02 Vua)

 

Nằm cách Hà Nội hơn 50km, Làng Cổ Đường Lâm thuộc địa phận thị xã Sơn Tây, Hà Nội là một địa điểm du lịch nổi tiếng của Hà Nội. Đây là ngôi làng cổ đầu tiên ở Việt Nam được Nhà nước trao bằng Di tích Lịch sử Văn hóa Quốc gia năm 2006. Với những nét đặc trưng về kiến trúc, nghệ thuật của một làng Việt cổ vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng, có thể nói làng cổ Đường Lâm chỉ đứng sau phố cổ Hội An và phố cổ Hà Nội về quy mô cũng như giá trị nghệ thuật khiến cho nơi đây trở thành một điểm nhấn du lịch của Hà Nội. Ngoài ra, đây còn là vùng đất “địa linh nhân kiệt”, nơi duy nhất “một ấp hai vua” – nơi sinh của vua Phùng Hưng và vua Ngô Quyền nên nơi đây còn gắn liền với những di tích lịch sử, văn hóa Nho học khiến du khách ai cũng một lần muốn ghé qua.

Làng Cổ Đường Lâm nằm ở đâu

Đường Lâm là một xã thuộc Sơn Tây, Hà Nội, nằm bên bờ phía Nam sông Hồng, cạnh quốc lộ 32, tại ngã ba giao cắt với đường Hồ Chí Minh. Phía Tây và Tây Bắc, Đường Lâm giáp xã Cam Thượng (Cam Giá Thượng), huyện Ba Vì; phía Tây Nam giáp xã Xuân Sơn; phía Nam giáp xã Thanh mỹ; phía Đông Nam giáp phường Trung Hưng, phía Đông giáp phường Phú Thịnh của thị xã Sơn Tây; Phía Bắc tiếp giáp với tỉnh Vĩnh Phúc, ranh giới chính là sông Hồng.

Lịch sử Làng Cổ Đường Lâm

Đường Lâm, tên nôm na gọi là Kẻ Mía. Tục danh này bắt đầu từ cái tên Cam Giá (mía ngọt). Cam Giá xưa được chia thành hai tổng: Cam Giá Thượng và Cam Giá Hạ, trong đó Cam Giá Thượng là các xã thuộc miền Cam Thượng, Thanh Lũng, Bình Lũng… (nay thuộc huyện Ba Vì); Cam Giá Hạ là xã Đường Lâm ngày nay. Vào đầu thế kỷ XIX, Đường Lâm là nơi đặt sở lỵ của trấn Sơn Tây. Khu vực làng cổ hiện nay địa giới vốn thuộc các làng Sàng Mông Phụ, Đông, Cam Thịnh, Đoài Giáp và Cam Lâm nằm cạnh nhau. Các làng này nối liền với nhau thành một khu vực nên có phong tục, tập quán, tín ngưỡng giống nhau.

 

Điểm tham quan đặc biệt

Đây là quê hương của nhiều danh nhân như vua Ngô Quyền, Bố cái Đại Vương Phùng Hưng, Thám hoa Giang Văn Minh, bà Man Thiện (mẹ của Hai Bà Trưng), bà Chúa Mía (vương phi của Chúa Trịnh Tráng), Phan Kế Toại (Phó Thủ tướng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong 4 nhiệm kỳ), Hà Kế Tấn (Bộ trưởng Bộ Thủy lợi 1964-1973), Phan Kế An (Họa sĩ vẽ tranh biếm họa của báo Sự thật), hàng duối cổ 1000 năm…

Kiến trúc Làng Cổ Đường Lâm

Ngày nay, làng cổ Đường Lâm vẫn còn giữ được những nét đặc trưng cơ bản của một ngôi làng Việt với cổng làng, cây đa, bến nước, sân đình, điếm canh, giếng nước, ruộng, gò, đồi, miếu, chùa…

Cổng làng cổ nằm ở làng Mông Phụ, quay về hướng Đông Nam, là một ngôi nhà hai mái nằm ngay trên đường vào làng, bên cạnh là cây đa hơn 300 tuổi, bến nước, ao sen… tạo ra một cảnh quan nguyên vẹn hiếm có tính đến thời điểm hiện nay.

Từ cổng làng đi vào làng trên những con đường lát gạch sạch sẽ, đi giữa những bức tường đá ong có màu vàng sậm khiến cho du khách cảm nhận được sự ấm cúng, bình yên của ngôi làng.

Đường xá được xây dựng theo hình xương xá với nhiều đường ngõ nhỏ với đình làng Mông Phụ là khu vực Trung tâm, với cấu trúc này nếu đi từ đình ra sẽ không bao giờ quay lưng vào cửa Thánh. Cấu trúc này cũng tạo ra một không gian rộng lớn ở trung tâm làng, là nơi giao lưu văn hóa, diễn ra các lễ hội truyền thống vào các ngày Lễ, Tết… Và cấu trúc này cũng khiến cho cư dân trong làng có môi trường sống an toàn.

Làng cổ Đường Lâm có tổng cộng 956 ngôi nhà cổ, nằm ở các làng Đông Sàng, Mông Phụ và Cam Thịnh. Có nhiều ngôi nhà được xây dựng từ rất lâu đời, từ những năm 1649, 1703, 1850… đều được xây dựng bằng loại vật liệu truyền thống của xứ Đoài là: đá ong, tre, gỗ xoan, nứa, gạch đất nung, ngói, đất nện, trấu, mùn cưa,…

Nhà thường được xây dựng với mô hình 5 gian hay 7 gian 2 dĩ, gắn liền với nhà là sân, vườn, bếp, nhà ngang, giếng nước, chuồng trại, bình phong, cao, cây rơm, cổng có mái che…

Ngoài ra làng cổ Đường Lâm còn có một hệ thống các nhà thờ họ, miếu, quán đình, chùa, giếng cổ… nằm trong một môi trường cảnh quan sinh động và trù phú đã tạo thành một điểm nhấn thú vị cho vùng đất Sơn Tây và Hà Nội.

Hướng dẫn đi ĐƯỜNG LÂM

Với vị trí gần đường quốc lộ và cách Hà Nội chỉ khoảng 50km, nên có nhiều cách di chuyển đến Đường Lâm trong ngày.

Cổng làng Mông Phụ

Nét cổ nhất của Đường Lâm nằm ở kiến trúc cổng làng và đình Mông Phụ. Cổng làng hội tụ bao lớp lang văn hoá với kiến trúc vòm, lớp đá ong cổ. Vốn dĩ làng có tới 5 cổng, một cổng lớn và 4 cổng trấn tứ phương. Hiện tại chỉ còn sót lại cổng làng Mông Phụ được xây dựng từ năm 1833, trên còn tựa dòng chữ “thế hữu hưng ngơi đại”, tạm hiểu là “thời nào cũng có người tài giỏi”.

Đình làng Mông Phụ

Đình Mông Phụ đã có cách đây gần 380 năm, mang đậm dấu ấn của lối kiến trúc Việt – Mường: đình có sàn gỗ cách mặt đất, mô phỏng kiểu kiến trúc của nhà sàn. Có thể nói đây là một bông hoa về nghệ thuật kiến trúc, những nét tài hoa có một không hai ấy còn được lưu giữ trên những bức trạm cốn và đầu dư… Tinh vi trong từng nhát đục, song cũng cực kỳ tinh tế trong quy hoạch tổng thể mang tính vĩ mô.

Có truyền thuyết kể rằng: Đình Mông phụ đặt trên đầu một con rồng mà giếng làng là hai mắt. Trước cửa đình là một cái sân rộng, sân này là nơi biểu diễn các trò khi làng vào đám. Sân đình đào thấp hơn so với mặt bằng xung quanh, có vẻ như là một nghịch lý so với kiến trúc hiện đại, song thực ra đó lại là một dụng ý của người xưa. Khi mưa xuống, nước từ ba phía ào ạt đổ vào sân đình (nước chảy chỗ trũng), ẩn ý cho khát vọng về một đời sống ấm no. Sau đó nước từ từ thoát ra theo hai cống nhỏ chạy dọc theo nách đình (chống thủy lôi tâm), từ xa nhìn lại, trong mưa hai rãnh nước vẽ nên hai râu rồng vừa thật lại vừa ảo, quả thật là một ý tưởng hết sức lãng mạn của các kiến trúc sư cổ…

Không chỉ thế, sân đình còn là một cái “ngã sáu” khổng lồ, xoè ra như những cánh hoa, quy tụ mọi con đường trong làng về trung tâm. Sự kỳ diệu về địa thế và kiến trúc đó khiến cho người làng có thể từ đình đi đến bất cứ xóm nào trong làng mà không ai trực tiếp quay lưng lại với hướng đình.

Nhà thờ Thám hoa Giang Văn Minh

Nằm trong trung tâm của quần thể di tích Làng cổ ở Đường Lâm, di tích Nhà thờ Thám hoa Giang Văn Minh đang trở thành điểm đến tham quan, tìm hiểu của nhiều du khách trong và ngoài nước. . Di tích được xây dựng từ đời Tự Đức để thờ Thám hoa Giang Văn Minh (1573 – 1637), người được vua Lê Thần Tông cử đi sứ sang Trung Quốc. Ông đã dũng cảm đối đáp để bảo vệ danh dự dân tộc trước sự xúc phạm của vua Minh. Nhà thờ được người trong họ xây bằng gạch thời tự Đức (1847-1883), kiến trúc theo kiểu chữ “nhị”, mặt quay về hướng Nam.

Các ngôi nhà cổ

– Nhà của ông Hà Nguyên Huyến: Là di tích được xếp hạng nhà cổ dân sinh loại một. Ngôi nhà gây ấn tượng mạnh cho khách tới thăm bởi màu xanh cây cối. Vốn có nghề nấu tương, ông Huyến dành hầu hết diện tích sân làm nơi chế biến. Các vại tương màu nâu trầm xếp hàng đều tăm tắp trên khoảng sân gạch.

Là người đam mê chữ Hán nên ông Huyến trang trí nhà cửa bằng các câu đối có nét chữ đẹp mắt. Các vật dụng nhỏ như điếu bát, ấm chén sứ, đèn dầu… trong nhà làm bật lên được tính cách tinh tế, hoài cổ của chủ nhân.

– Ngôi nhà của ông Nguyễn Văn Hùng: cũng được xếp hạng nhà cổ dân sinh loại một. Ngay khi đến thăm, du khách sẽ ngạc nhiên trước chiếc cổng được xây dựng theo lối xưa bằng đất đá, bã trấu, bùn để tạo chất kết dính và lối vào rợp bóng bởi cây tơ hồng.

Ngôi nhà được xây dựng từ năm 1649, chủ yếu bằng gỗ mít và gỗ lim nhưng những nét chạm trổ tinh hoa trên cửa từ thời Hậu Lê vẫn còn nguyên vẹn. Ngôi nhà được kết cấu theo kiểu 5 gian 2 chái, 3 gian giữa là nơi thờ cúng tổ tiên, thêm bộ trường kỷ dùng để tiếp khách. Hai gian bên cạnh dùng làm nơi ngủ.

 

Giếng cổ Đường Lâm

Giếng cổ Đường Lâm, nơi xưa kia được dân làng thường xuyên sử dụng cho mục đinh sinh hoạt công cộng hàng ngày. Trước đây được xây chủ yếu bằng chất liệu đá ong và vữa nhưng nay một số đã được tu sửa lại bằng xi măng và gạch.

Đền thờ Phùng Hưng (Bố Cái Đại Vương)

Phùng Hưng là thủ lĩnh nghĩa quân khởi nghĩa vào tháng 4 năm Tân Mùi (791) chống lại ách đô hộ khắc nghiệt của nhà Đường. Ông làm tổng chỉ huy, chia quân làm 5 mũi, do các tướng Phùng Hải, Phùng Dĩnh, Đỗ Anh Hàn, Bố Bá Cần chỉ huy tiến đánh bao vây Thành Tống Bình (Hà Nội ngày nay). Tên đô hộ Cao Chính Bình cùng 4 vạn quân đã ra sức chống cự, nhưng sau 7 ngày đã bị thất bại nặng nề. Quân địch bị tổn thất, Cao Chính Bình vì lo sợ mà sinh bệnh rồi chết. Sau khi chiếm được thành, Phùng Hưng tổ chức lại việc cai trị và xây dựng quyền tự chủ lâu dài. Ông coi chính sự được 7 năm rồi mất.

Đền thờ Phùng Hưng được lập ở nhiều nơi, trong đó ở Đường Lâm đền thờ có quy mô lớn nhất nhưng chưa rõ niên đại xây dựng. Tuy nhiên việc đền thờ có hình dáng như ngày nay là do có một đợt trùng tu lớn vào năm 1889 (đời vua Thành Thái). Vì vậy đền thờ có kiến trúc đời nhà Nguyễn vào những năm đầu thế kỷ XX gồm các hạng mục công trình như: Tả – Hữu Mạc, Đại Bái, Hậu Cung. Một số hoa văn, linh vật được trang trí trong đình như: bờ nóc, đầu xà, điểm nối giữa các bộ vì, kèo, cột. Tượng Phùng Hưng được an toạ ở Hậu Cung, xung quanh đền có một số cây lấy gỗ, ăn quả đã có niên đại lâu đời như: lim, nhãn, đa…

Trong đền thờ có tấm bia Phùng tự bi ký ở đình Đoài Giáp được tạc vào năm Hồng Đức thứ 4 (1473) đã chép lại rất nhiều thông tin liên quan đến cuộc đời, sự nghiệp của Ngài.

Ngoài ra, khu vực thôn Cam Lâm vẫn còn địa danh đồi Hổ Gầm, thôn Đoài Giáp có gò Bố Về – nơi gắn liền với thân thế, sự nghiệp của Bố Cái Đại Vương. Ngày 8 tháng Giêng âm lịch hàng năm, nhân dân Đường Lâm và con cháu họ Phùng, du khách thập phương lại hội tụ về đây để tỏ lòng thành kính đối với ông.

 

Đền thờ và Lăng Ngô Quyền

Lăng Ngô Quyền: Cách đền Phùng Hưng khoảng 500 mét về phía bên trái. Lăng khá rộng rãi, trước mặt lăng là những cánh đồng lúa trải dài bát ngát, không khí mát mẻ, trong lành.

Đền và lăng Ngô Quyền được xây dựng trên một đồi đất cao, có tên là đồi Cấm, mặt hướng về phía đông. Đền thờ được xây ở phía trên, cách lăng khoảng 100m. Phía trước lăng là một cánh đồng rộng nằm giữa 2 sườn đồi; một nguồn nước gọi là vũng Hùm chảy ra sông Tích; bên cạnh đó là đồi Hổ Gầm, tương truyền xưa là nơi thuở nhỏ Ngô Quyền thường cùng bạn chăn trâu, cắt cỏ và tập luyện võ nghệ. Đây có lẽ là vị trí đẹp nhất của ấp Đường Lâm xưa.

Đền thờ Ngô Quyền được xây dựng từ lâu đời và đã qua nhiều lần trùng tu. Lần tu sửa gần đây nhất là vào thời Vua Tự Đức (1848 – 1883). Đền có quy mô khá khiêm tốn, gồm: Nghi Môn, Tả Mạc, Hữu Mạc, Đại Bái (Tiền Đường) và Hậu Cung.  Đền được xây bằng gạch, lợp ngói mũi hài, có tường bao quanh.  Đại Bái đền thờ là một ngôi nhà 5 gian, bộ khung bằng gỗ, được thể hiện chủ yếu thiên về sự bền chắc, tôn nghiêm; gian giữa có treo bức hoành phi đề bốn chữ Hán “Tiền vương bất vong” (Vua Ngô Quyền sống mãi). Hiện nay, Đại Bái còn được dùng làm phòng trưng bày về trận chiến thắng trên sông Bạch Đằng và thân thế, sự nghiệp của Ngô Quyền. Hậu Cung là một ngôi nhà dọc 3 gian, bộ khung nhà bằng gỗ được trang trí hình rồng, hoa, lá… Gian giữa có đặt tượng thờ Ngô Quyền.

Lăng mộ Vua Ngô Quyền được xây dựng năm Tự Đức thứ 27 (1874) và trùng tu năm Minh Mạng thứ 2 (1821). Lăng được xây kiểu nhà bia có mái che, cao khoảng 1,5m. Giữa lăng là ngai, trong có bia đá ghi bốn chữ Hán “Tiền Ngô Vương Lăng” (Lăng mộ Vua Ngô Quyền). Đặc biệt, trong quần thể đền và lăng Ngô Quyền, 18 cây duối cổ – tương truyền là nơi Ngô Quyền buộc voi, ngựa – đã được công nhận là “Cây di sản” cấp quốc gia.

Hàng năm cứ đến ngày 14 tháng 8 âm lịch (ngày giỗ Vua Ngô Quyền)  nhân dân trong vùng lại về đây để tưởng nhớ công ơn của ông – vị vua “đã mở nước xưng vương”, kết thúc hơn 1.000 năm Bắc thuộc, mở đầu một thời đại mới, độc lập, tự chủ cho lịch sử dân tộc.

Rặng Duối Cổ

Rặng duối này có cách đây khoảng 1.000 năm. Tương truyền, đây là nơi Vua Ngô Quyền từng làm chỗ buộc voi, buộc ngựa sau các cuộc tập trận cùng với nghĩa quân để chuẩn bị tiến về vùng cửa sông Bạch Đằng đánh quân Nam Hán, chấm dứt 1.000 năm Bắc thuộc, lập ra vương triều Đại Việt.

Đặc sản : Đến với làng cổ Đường Lâm quý khách cũng không nên bỏ qua đặc sản gà Mía Sơn Tây , Tương Nếp Đường Lâm, Thịt quay giòn và kẹo dồi…

Để phân biệt gà Mía với các loại gà thông thường khác cần phải lưu ý: Gà Mía thường có đầu nhỏ, mình vuông; lúc còn nhỏ, da gà Mía có màu đỏ au như trái gấc chín nhưng khi có trọng lượng khoảng 2kg trở lên da gà bắt đầu chuyển sang màu vàng. Khi trưởng thành, gà trống nặng từ 5 đến 6kg (thực tế nếu gà Mía lai thì không đạt được trọng lượng này), gà mái nặng từ 2,7 đến 3,2kg. Gà trống thân to, dài, hình chữ nhật, phần lớn có màu mận chín, tuy nhiên cũng có màu đen, gà trống rất ít lông. 

Đặc biệt, gà trống khi trưởng thành ở má ngoài chân gà có một vệt màu đỏ từ trên xuống đến ngón chân trông giống như sợi chỉ. Cả gà trống và mái đều có mào cờ (đơn), tích tai chảy, da chân màu vàng nhạt, nhiều gà có yếm trải dài. Gà mái đa số có bộ lông màu lá chuối khô hoặc màu trắng đục, chân nhỏ, nhanh nhẹn. Sau khi đẻ từ 4 đến 5 lứa, lườn gà chảy xuống giống như yếm bò (đây là nét đặc trưng của gà mái). 


Thịt gà Mía thơm, có vị ngọt, đậm, dai, không mềm, nhũn như thịt gà công nghiệp nhưng cũng không dai quá như gà ta. Da gà ăn rất giòn, nhất là gà trống thiến. Gà Mía được nuôi thả vườn và ăn cả thức ăn xanh (rau, củ, quả...), thóc, cám gạo, ngô nghiền, các loại khoáng, vitamin... nên bảo đảm khỏe mạnh và ngon.

Hiện điều mà người chăn nuôi gà Mía trăn trở nhất là việc nuôi giữ gà giống thuần chủng. Để giúp đỡ người dân, hiện nay các đơn vị của ngành nông nghiệp Hà Nội đang tập trung xây dựng thương hiệu và quảng bá sản phẩm đến tay người tiêu dùng.

 

 

 

Các tin liên quan :